Thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể, thời gian qua, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành đồng bộ nhiều chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, trong đó có chính sách hợp tác xã được tiếp cận vốn tín dụng từ các Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 18/3/2002, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (Đã nêu: Xây dựng các Quỹ Hỗ trợ phát triển cho kinh tế tập thể); Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Đã nêu: Nâng cao và phát huy vai trò của Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã trong việc hỗ trợ các tổ chức kinh tế tập thể vay vốn với lãi suất ưu đãi…); Luật Hợp tác xã năm 2003, 2012, 2023 đều quy định: Nhà nước có chính sách hỗ trợ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tiếp cận vốn và Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Đến nay, ngoài Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ thành lập theo Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27/10/2006 (sau đây gọi tắt là Quỹ Trung ương), trên địa bàn cả nước đã có 51 tỉnh, thành phố thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã (sau đây gọi tắt là Quỹ địa phương).
- Về địa vị pháp lý của các Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã (Quỹ): Chính phủ đã ban hành Nghị định số 45/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 về thành lập, tổ chức và hoạt động Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, theo đó: (1) Đối với Quỹ địa phương, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập và cấp vốn điều lệ tối thiểu 20 tỷ đồng, ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động đối với Quỹ hoạt động theo mô hình công ty TNHH MTV do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; hoặc cho chủ chương thành lập đối với Quỹ hoạt động theo mô hình hợp tác xã; (2) Đối với Quỹ Trung ương, hoạt động theo mô hình công ty TNHH MTV do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ do Liên minh Hợp tác xã Việt Nam là cơ quan đại diện chủ sở hữu, vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng; (3) Các Quỹ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo toàn và phát triển vốn, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong huy động và sử dụng vốn nhằm thực hiện chức năng cho vay ưu đãi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, thành viên của tổ hợp tác và hợp tác xã.
- Về tình hình hoạt động, cho vay hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể của các Quỹ thời gian qua
– Đối với Quỹ Trung ương: Được thành lập cuối năm 2006 với số vốn điều lệ ban đầu do ngân sách nhà nước cấp là 100 tỷ đồng, đến năm 2022 mới được cấp đủ vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng. Ước đến hết tháng 04/2024, Quỹ đã ký hợp đồng cho vay trên 400 lượt HTX tại 55 tỉnh, thành phố với tổng số tiền ký hợp đồng cho vay đạt 1.400 tỷ đồng, giải ngân với số tiền 1.200 tỷ đồng. Dư nợ đến hết tháng 04/2024 ước đạt 600 tỷ đồng. Chất lượng tín dụng ở mức an toàn. Các dự án vay vốn của HTX chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc (chiếm khoảng 70% tổng số dự án Quỹ cho vay); thời hạn vay bình quân 4 năm/dự án.
Trước thời điểm 31/12/2023, Quỹ hoạt động theo cơ chế cho vay theo Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27/10/2006 và Quyết định số 23/2017/QĐ-TTg ngày 22/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó Quỹ chỉ cho vay HTX, liên hiệp HTX; đồng thời chỉ cho vay đầu tư, không cho vay vốn lưu động (ngắn hạn), nên gặp nhiều khó khăn, bất cập, việc giải ngân diễn ra còn chậm. Từ đầu năm 2024, sau khi cấp có thẩm quyền và Quỹ ban hành đồng bộ Quy chế cho vay, quy định cụ thể về lãi suất cho vay, Quỹ mới triển khai cho vay theo cơ chế mới, theo đó Quỹ được cho vay đến thành viên tổ hợp tác, HTX, đồng thời được cho vay vốn lưu động. Do cơ chế mới phù hợp với nhu cầu và khả năng tiếp cận của khu vực kinh tế tập thể, nên tiến độ giải ngân đang diễn ra tương đối thuận lợi.
Về cơ bản, các HTX sau khi vay vốn của Quỹ đã sử dụng vốn vay đúng mục đích để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất và tiêu thụ, liên kết với doanh nghiệp gắn với chuỗi giá trị thị trường trong nước và xuất khẩu; trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi; tăng trưởng qui mô và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX, giải quyết việc làm, mang lại lợi ích rõ nét cho thành viên và người lao động, cụ thể: doanh thu bình quân một HTX tăng 43,5%, lợi nhuận tăng 37,2%, số thành viên tăng 24%, số lao động tăng bình quân 37%; thu nhập thành viên tăng 26,2%, thu nhập người lao động tăng 24,2%; giải quyết việc làm cho trên 15.000 lao động trực tiếp và gián tiếp.
Đến nay, Quỹ đã cơ bản hoàn thiện đồng bộ các văn bản quy chế, quy trình, quy định về tổ chức quản trị hoạt động theo Nghị định số 45/2021/NĐ-CP. Thời gian tới, Quỹ tích cực triển khai cho vay vốn lưu động, cho vay thành viên, song song với tiếp tục đẩy mạnh cho vay pháp nhân và cho vay đầu tư, phấn đấu đến hết năm 2024 cơ bản giải ngân hết vốn điều lệ được cấp; sang năm 2025 dự kiến sẽ tham mưu, đề xuất các cấp, các ngành bố trí trong kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2026 – 2030 tăng vốn điều lệ cho Quỹ số tiền 1.000 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước, kết hợp huy động tối đa các nguồn lực ngoài ngân sách theo Quy chế huy động vốn để tăng cường nguồn vốn hoạt động.
– Đối với 51 Quỹ địa phương:
Tính đến hết năm 2023, các Quỹ có tổng vốn điều lệ được ngân sách cấp là 1.219 tỷ đồng; tổng vốn hoạt động 2.662 tỷ đồng; doanh số cho vay đạt 22.687 tỷ đồng; cho vay 8.979 lượt hợp tác xã, gần 800.000 lượt tổ hợp tác, thành viên hợp tác xã, tổ hợp tác, trong đó cho vay lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn chiếm 68%, phi nông nghiệp chiếm 32%. Đến hết năm 2023, dư nợ các Quỹ đạt 2.243 tỷ đồng, chiếm 85% tổng nguồn vốn hoạt động. Các Quỹ địa phương do Liên minh Hợp tác xã cấp tỉnh trực tiếp quản lý có chất lượng tín dụng cơ bản tốt, tự trang trải chi phí hoạt động và bảo toàn vốn điều lệ; các Quỹ ủy thác cho các tổ chức tài chính – tín dụng khác cho vay nhìn chung hoạt động kém hiệu quả, tỷ lệ giải ngân thấp, nợ quá hạn cao, các hợp tác xã khó tiếp cận. Tổng hợp báo cáo của Liên minh Hợp tác xã các tỉnh, thành phố cho thấy, các HTX, tổ hợp tác sau khi vay vốn Quỹ bình quân một năm: doanh thu tăng 26,5%, lợi nhuận tăng 26,62%, số thành viên kết nạp mới tăng 20%. Giải quyết việc làm cho 130.000 lao động trực tiếp và gián tiếp; thu nhập bình quân của một thành viên tăng 23,39%/năm, của người lao động tăng 25,43%/năm; đóng góp ngân sách tăng 18%/năm.
Các Quỹ địa phương hoạt động theo cơ chế cũ còn nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập, chưa theo khung khổ pháp lý đồng bộ; cơ chế cho vay còn bó hẹp về phạm vi, đối tượng, phương thức cho vay; nguồn vốn còn hạn hẹp, một phần do ngân sách địa phương khó khăn hoặc bố trí nguồn lực chưa thỏa đáng, chưa huy động được các nguồn vốn ngoài ngân sách và liên kết hệ thống Quỹ. Do đó, đa số Quỹ địa phương không đủ kinh phí để bố trí nhân sự chuyên trách, nhân sự kiêm nhiệm, hạn chế về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nhất là về nghiệp vụ tín dụng. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 45/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, đảm bảo cơ sở pháp lý thống nhất, cơ bản khắc phục các tồn tại, hạn chế nêu trên, quy định mức vốn điều lệ tối thiểu… Theo quy định của Nghị định, thời hạn cuối cùng các Quỹ phải rà soát, tổ chức, sắp xếp lại là ngày 15/5/2024, tuy nhiên, việc triển khai đang diễn ra rất chậm. Đến nay, cả nước mới có 15/50 tỉnh, thành phố có Quyết định của UBND tỉnh, thành phố về rà soát, tổ chức sắp xếp lại Quỹ địa phương; 01/13 tỉnh là Thừa Thiên Huế thành lập mới Quỹ theo quy định của Nghị định.
- Đánh giá về kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân
3.1. Về kết quả đạt được
Các Quỹ được thành lập và hoạt động theo đúng chủ trương của Đảng và yêu cầu thực tiễn, từng bước phát triển cả về số lượng, quy mô vốn, phạm vi hoạt động, trở thành công cụ để hiện thực hóa chính sách hỗ trợ tín dụng của Đảng và Nhà nước đối với khu vực kinh tế tập thể. Nhìn chung, hoạt động của các Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã từ Trung ương đến địa phương thời gian qua đã góp phần thúc đẩy quá trình thành lập mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tập thể; khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất và tiêu thụ, liên kết với doanh nghiệp gắn với chuỗi giá trị thị trường trong và ngoài nước; tăng doanh thu, lợi nhuận, sức cạnh tranh, tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong khu vực kinh tế tập thể và đảm bảo an sinh xã hội tại các địa phương. Nhiều HTX, thành viên HTX được vay vốn đã trở thành các HTX điển hình tiên tiến, hộ sản xuất kinh doanh giỏi, tạo sự lan tỏa. Các Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã đã chú trọng gắn hoạt động hỗ trợ vốn với các chương trình, mục tiêu phát triển của Chính phủ và địa phương. Các Quỹ với tôn chỉ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho vay với lãi suất ưu đãi đã phát huy được lợi thế về sự am hiểu, đồng cảm, chia sẻ, tâm huyết, trách nhiệm với các Liên hiệp HTX, HTX và thành viên; hỗ trợ tín dụng đồng bộ với các kênh hỗ trợ khác của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
3.2. Về tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
– Đối với các Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã
+ Việc triển khai thực hiện Nghị định số 45/2021/NĐ-CP hiện nay đang diễn ra rất chậm so với yêu cầu như báo cáo ở trên. Theo đó, gần một nửa các Quỹ đang có vốn điều lệ dưới mức tối thiểu (20 tỷ đồng) theo quy định của Nghị định, từ đó không có đủ kinh phí để tuyển dụng, bố trí nhân sự chuyên trách. Mặt khác, nhiều Quỹ chưa thể triển khai cơ chế cho vay mới, chưa cho vay vốn lưu động và chưa cho vay đến thành viên tổ hợp tác, HTX, hạn chế hiệu quả hoạt động và khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khu vực kinh tế tập thể trên địa bàn.
+ Nhu cầu vốn tín dụng để phát triển kinh tế tập thể là rất lớn (lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng mỗi năm, theo số liệu khảo sát của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam), trong khi năng lực của các Quỹ mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ trong tổng nhu cầu vốn tín dụng của khu vực kinh tế tập thể (theo thống kê của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, chỉ có khoảng 10% số HTX được vay vốn từ các Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã), trong bối cảnh các HTX khó tiếp cận vốn các tổ chức tín dụng, xu hướng chung là nhiều hợp tác xã phải chấp nhận vay thị trường phi chính thức với lãi suất cao, thậm chí vay nặng lãi (tín dụng đen) để có nguồn vốn thực hiện dự án, phương án sản xuất kinh doanh. Cụ thể:
Tổng vốn hoạt động của các Quỹ Trung ương và địa phương khoảng 3.600 tỷ đồng, trong đó Quỹ Trung ương và Quỹ trợ vốn xã viên HTX TP. Hồ Chí Minh đã là 2.300 tỷ đồng, tổng vốn hoạt động của 50 Quỹ còn lại chỉ đạt 1.300 tỷ đồng, quá nhỏ so với nhu cầu vốn tín dụng rất lớn của khu vực kinh tế tập thể trên địa bàn (có 07/51 Quỹ địa phương có vốn hoạt động trên 50 tỷ đồng, 19/51 Quỹ có vốn hoạt động từ 20 tỷ đồng đến dưới 50 tỷ đồng; còn lại 25/51 Quỹ, chiếm 49% số Quỹ có vốn hoạt động dưới mức quy định của Nghị định là 20 tỷ đồng).
+ Công tác truyền thông, phổ biến cơ chế, chính sách cho vay của Quỹ đến khách hàng còn nhiều hạn chế, chưa áp dụng công nghệ hiện đại.
+ Đa số các Quỹ chưa ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý, điều hành, quản trị rủi ro và quy trình tác nghiệp.
+ Các Quỹ chưa có sự phối hợp với các ngân hàng thương mại trong các mặt hoạt động; chưa liên kết, hợp tác giữa Quỹ Trung ương và các Quỹ địa phương.
+ Một số cơ chế, chính sách còn bất cập: (1) Về quy định cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: Các Quỹ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP và Nghị định số 116/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn nên không được áp dụng cơ chế xử lý rủi ro như đối với ngân hàng thương mại khi Quỹ cho vay không có tài sản bảo đảm. (2) Quy định về trích lập dự phòng rủi ro của các Quỹ chưa phù hợp: Theo Nghị định số 45/2021/NĐ-CP, các Quỹ thực hiện theo quy định đối với tổ chức tài chính vi mô, theo đó, khi trích lập dự phòng rủi ro thì các loại tài sản được khấu trừ vào dư nợ gốc để tính dự phòng cụ thể chỉ bao gồm số dư tiết kiệm bắt buộc, tiền gửi tự nguyện, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh, trong khi các Quỹ không được nhận tiền gửi bắt buộc, tài sản bảo đảm chủ yếu là bất động sản nhưng không được khấu trừ vào dư nợ trước khi trích lập dự phòng cụ thể. Do đó, mức trích dự phòng rất lớn, vượt khả năng tài chính của nhiều Quỹ. (3) Cơ chế tiền lương còn bất cập: Thông tư số 13/2022/TT-BLĐTBXH ngày 30/6/2022 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã xác định mức tiền lương bình quân trên cơ sở chênh lệch thu – chi không phù hợp với tôn chỉ mục đích và tính chất đặc thù của Quỹ là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Mặt khác, các Quỹ khó thu hút lao động có chất lượng, đặc biệt là cán bộ tín dụng do tiền lương của cán bộ quản lý còn thấp hơn so với thu nhập trung bình của nhân viên ngân hàng thương mại.
– Đối với các HTX, Liên hiệp HTX:
Một phần tồn tại, hạn chế xuất phát từ phía các HTX, Liên hiệp HTX, dẫn đến HTX, Liên hiệp HTX khó tiếp cận nguồn vốn các Quỹ, như:
+ Số HTX hoạt động có hiệu quả chiếm tỷ trọng chưa cao, đa phần các HTX cơ sở hạ tầng, tài sản, máy móc thiết bị, phương tiện làm việc còn thiếu hoặc lạc hậu; nhân sự mỏng, không được đào tạo bài bản, năng lực quản trị, điều hành, kiến thức về pháp luật, quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh, công nghệ còn nhiều hạn chế. HTX nông nghiệp chủ yếu quy mô còn nhỏ, mới phổ biến làm dịch vụ đầu vào như thủy lợi, giống, vật tư, phân bón…, chưa chủ động được đầu ra, phải bán lẻ cho các thương lái hoặc chợ đầu mối, tính ổn định không cao, chưa tạo được thương hiệu, chưa hình thành các chuỗi liên kết sản xuất nên còn nhiều rủi ro về thị trường, giá cả, từ đó dự án, phương án sản xuất, kinh doanh khi vay vốn còn kém khả thi, hiệu quả, kém thuyết phục.
+ Việc cho vay đầu tư dự án của các HTX, Liên hiệp HTX rất khó khăn: Để đáp ứng được các quy định về cho vay đầu tư nhà xưởng, nhà kho, trang trại chăn nuôi…, HTX, Liên hiệp HTX phải đáp ứng các quy định về Luật đất đai, Luật xây dựng, Luật đầu tư, Luật bảo vệ môi trường, Luật đấu thầu…, trong khi HTX phổ biến không có đất thực hiện dự án; chủ yếu phải thuê đất của cá nhân, hộ gia đình để thực hiện dự án, do hầu hết là đất thổ cư, đất nông nghiệp, đất trồng cây, không phù hợp với mục đích sử dụng, nên HTX không được cấp phép xây dựng, chứng nhận bảo vệ môi trường… Do đó việc tiếp cận vốn ngân hàng và các Quỹ gặp khó khăn.
+ Các Hợp tác xã khi vay vốn hầu như thiếu tài sản bảo đảm, hoặc tài sản là đất thuê trả tiền hàng năm không được thế chấp, nếu có tài sản thường tài sản bảo đảm có giá trị thấp.
+ Năng lực tài chính mỏng, thiếu vốn đối ứng tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh.
+ Việc hạch toán, kế toán còn nhiều bất cập; nhiều HTX giao dịch mua bán không có đầy đủ hóa đơn chứng từ; không tuân thủ quy định pháp luật về chế độ kế toán, dẫn tới không minh bạch về tài chính. Tổ chức tín dụng và các Quỹ không đủ cơ sở số liệu tin cậy để phân tích, thẩm định, quyết định cho vay.
- Giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận vốn từ các Quỹ của khu vực kinh tế tập thể thời gian tới
4.1. Nhóm giải pháp củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ
– Thứ nhất, đối với các tỉnh, thành phố chưa thành lập hoặc chưa tổ chức, sắp xếp lại Quỹ, cần khẩn trương tham mưu cấp có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Nghị định số 45/2021/NĐ-CP. Tập trung xây dựng, hoàn thiện các văn bản, quy chế, quy trình, quy định về tổ chức, quản trị hoạt động đảm bảo sự đồng bộ thống nhất và đúng pháp luật để sớm đưa Quỹ đi vào hoạt động theo cơ chế mới.
– Hai là, đa dạng hóa các phương thức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn cho các đối tượng vay vốn để lan tỏa cơ chế chính sách, triển khai hỗ trợ đến tất cả đối tượng được hưởng chính sách. Xây dựng bộ nhận diện thương hiệu đồng bộ với việc triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ mới theo Nghị định số 45/2021/NĐ-CP, đảm bảo tương thích, đồng bộ với bộ nhận diện của Liên minh Hợp tác xã các cấp nhằm quảng bá hình ảnh và các hoạt động của hệ thống Quỹ đến khách hàng.
– Ba là, triển khai có hiệu quả công tác huy động vốn, bổ sung vốn điều lệ để tăng quy mô hoạt động của các Quỹ, từ đó mở rộng hoạt động cho vay, cụ thể: (1) Xây dựng đề án, kế hoạch, báo cáo các cơ quan chức năng đề xuất tăng vốn điều lệ, lộ trình cấp bổ sung vốn điều lệ; (2) Tăng cường huy động vốn ngoài ngân sách; nghiên cứu tận dụng các nguồn vốn tài trợ, viện trợ, đóng góp, nhận ủy thác từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước theo quy định để bổ sung nguồn vốn hoạt động.
– Bốn là, cho vay đúng đối tượng, đúng chính sách, gắn hoạt động cho vay với các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ở cả Trung ương và địa phương, đáp ứng tối đa nhu cầu về vốn tín dụng cho phát triển kinh tế tập thể. Triển khai hoạt động có hiệu quả theo quy định mới, bảo đảm tuân thủ nghiêm quy chế, quy trình được ban hành. Cải cách quy trình cho vay, đơn giản hóa thủ tục vay vốn, điều kiện cho vay. Đẩy mạnh cho vay không có tài sản bảo đảm theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
– Năm là, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong tất cả các mặt hoạt động của các Quỹ, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ, quản trị, điều hành, tích hợp và liên kết hệ thống giữa Quỹ Trung ương với các Quỹ địa phương.
– Sáu là, tập trung tuyển dụng, lựa chọn đội ngũ cán bộ có năng lực, có trình độ trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, luật, kế toán, kiểm toán, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên, nhất là cán bộ tín dụng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đổi mới công tác tiền lương, tiền thưởng đảm bảo nguyên tắc trả lương theo mức độ cống hiến, hiệu quả công việc để động viên cán bộ, nhân viên gắn bó với Quỹ và thu hút nguồn nhân lực mới có chất lượng.
– Bảy là, tăng cường liên kết, hợp tác giữa Quỹ Trung ương và các Quỹ địa phương về hoạt động nghiệp vụ, quản trị rủi ro, đào tạo, công nghệ, tiếp cận nguồn lực từ thị trường. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác giữa các Quỹ với ngân hàng thương mại về ủy thác, nhận ủy thác; gửi tiền, quản lý dòng tiền của khách hàng vay vốn Quỹ; cho vay hợp vốn; trao đổi kinh nghiệm về nghiệp vụ, chuyển đổi số trong các mặt hoạt động.
4.2. Nhóm giải pháp đối với các HTX, LHHTX
– Thứ nhất là, cần tăng cường công tác đào tạo bài bản, chuyên sâu nhằm nâng cao năng lực quản trị, điều hành, công tác hoạch định chiến lược, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, xây dựng báo cáo tài chính, lập dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh và hồ sơ vay vốn hiệu quả, khả thi cho cán bộ, nhất là người đứng đầu HTX; thu hút lao động trẻ, nguồn nhân lực có chất lượng làm việc cho HTX, từ đó nâng cao năng lực nội tại của các HTX.
– Hai là, nâng cao chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn, thương hiệu, xuất xứ (OCOP, hữu cơ, GlobalGap, VietGAP…) đáp ứng nhu cầu của thị trường; chủ động tham gia liên kết chuỗi giá trị, tham gia phát triển vùng nguyên liệu và hình thành liên kết chuỗi; xây dựng mã số vùng trồng gắn với phát triển vùng nguyên liệu và truy xuất nguồn gốc sản phẩm; ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong quản trị điều hành và hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX.
– Ba là, chủ động tiếp cận thị trường trong và ngoài nước thông qua các chương trình, dự án về xúc tiến thương mại của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.
– Bốn là, thích nghi với cơ chế thị trường, chấp hành đúng quy định của pháp luật về hóa đơn, chứng từ, sổ sách kế toán; minh bạch hóa các thông tin về tình hình tài chính, tài sản của HTX, công khai, tạo niềm tin cho thành viên góp vốn, các đối tác cũng như thuyết phục được các tổ chức tín dụng, các Quỹ cho vay vốn.
– Năm là, tận dụng và sử dụng có hiệu quả tối đa các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực tài chính, uy tín của HTX đối với các tổ chức cho vay vốn.
- Đề xuất, kiến nghị
5.1. Đề xuất, kiến nghị với các Bộ, ngành, cơ quan trung ương
– Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số quy định, trong đó: (1) Quy định trích lập dự phòng rủi ro của các Quỹ như đối với tổ chức tín dụng, theo đó khấu trừ vào dư nợ gốc trước khi trích lập dự phòng rủi ro tất cả các loại tài sản bảo đảm đã thế chấp tại Quỹ; (2) Bổ sung quy định cho phép các Quỹ được áp dụng cơ chế xử lý rủi ro khi cho vay tín chấp theo chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn quy định tại Nghị định số 55/2015/NĐ-CP và Nghị định số 116/2018/NĐ-CP; (3) Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 13/2022/TT-BLĐTBXH ngày 30/6/2022 hướng dẫn thực hiện quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng phù hợp với tính chất hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
– Tạo điều kiện cho các Quỹ thực hiện chức năng tiếp nhận, huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách từ các chương trình, dự án, các nguồn tài trợ, viện trợ trong và ngoài nước; cân đối, bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước tiếp tục bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ Trung ương thời gian tới.
– Phối hợp với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tham mưu cho Chính phủ cụ thể hóa một cách đồng bộ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với hợp tác xã theo Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới, từ đó nâng cao năng lực tiếp cận vốn tín dụng từ Quỹ và các tổ chức tín dụng.
– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sớm tham mưu, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về gói tín dụng dành riêng cho khu vực kinh tế tập thể theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Diễn đàn kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2024; tiếp tục rà soát để đề xuất sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách phù hợp với yêu cầu và thực tiễn hoạt động của khu vực kinh tế tập thể, HTX.
5.2. Đề xuất, kiến nghị với cấp ủy, chính quyền địa phương
– Quan tâm, chỉ đạo các Sở, ngành, Liên minh Hợp tác xã cấp tỉnh tập trung cao độ thúc đẩy việc rà soát, tổ chức sắp xếp lại Quỹ, đảm bảo đúng thời gian quy định của Nghị định số 45/2021/NĐ-CP. Đối với 12 tỉnh, thành phố chưa thành lập Quỹ, kính đề nghị UBND cấp tỉnh chỉ đạo quyết liệt sớm hoàn thiện Đề án thành lập, trình HĐND tỉnh phê duyệt chủ trương thành lập Quỹ, tạo điều kiện cho các chủ thể trong khu vực kinh tế tập thể, HTX trên địa bàn được thụ hưởng các chính sách ưu đãi tín dụng của Nhà nước.
– Ưu tiên nguồn lực từ ngân sách địa phương để cấp vốn điều lệ cho Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã tỉnh, thành phố, đảm bảo tối thiểu 20 tỷ đồng và bổ sung hàng năm để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng ngày càng lớn và đa dạng của khu vực kinh tế tập thể, HTX.
– Tập trung quan tâm, quán triệt và triển khai thực hiện một cách đồng bộ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đưa các chính sách vào thực tiễn đời sống sản xuất, kinh doanh của các liên hiệp HTX, các HTX, tổ hợp tác như các chính sách về: Đào tạo, ứng dụng chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại, chính sách tín dụng, tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; chính sách thuế; chính sách giao và cho thuê đất, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, chế biến sản phẩm… Từ đó các hợp tác xã có đủ điều kiện, năng lực hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh, lập dự án, phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả để vay vốn các tổ chức tín dụng; có đủ điều kiện và kiến thức về quản trị, khoa học công nghệ, marketing để liên kết chuỗi; có đủ điều kiện về vốn tự có, tài sản thế chấp để tiếp cận các nguồn vốn tín dụng.
– Chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương đẩy mạnh triển khai xây dựng mô hình HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa bền vững, tăng cường công tác truyên truyền vận động và nhân rộng mô hình hiệu quả; việc liên kết với các chủ thể khác của nền kinh tế vừa thu hút được nguồn lực xã hội cùng đầu tư vào các khâu trong chuỗi, vừa thuyết phục được các tổ chức tín dụng cung ứng vốn phát triển sản xuất kinh doanh.
6.3. Đề xuất Liên minh Hợp tác xã cấp tỉnh, các Quỹ địa phương
– Chủ động, tích cực, khẩn trương tham mưu đề xuất Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố sớm ban hành quyết định thành lập mới, hoặc tổ chức sắp xếp lại hoạt động, bổ sung vốn điều lệ để tăng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ, đáp ứng tối đa nhu cầu về vốn tín dụng cho phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn.
– Đề nghị các Quỹ địa phương thực hiện nghiêm chế độ báo cáo theo quy định tại Điều 44 Nghị định số 45/2021/NĐ-CP của Chính phủ và Điều 11 Thông tư số 52/2022/TT-BTC của Bộ Tài chính.
– Rà soát các quy định hiện hành đối với Quỹ địa phương, đề xuất sửa đổi, bổ sung khi có vướng mắc phát sinh. Hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang dự thảo sửa đổi, bổ sung Thông tư số 13/2022/TT-BLĐTBXH ngày 30/6/2022 hướng dẫn thực hiện quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Kính đề nghị Liên minh Hợp tác xã cấp tỉnh, các Quỹ địa phương rà soát, tham gia ý kiến sửa đổi Thông tư gửi về Quỹ Trung ương để tổng hợp, tham mưu Liên minh Hợp tác xã Việt Nam có văn bản tham gia với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội./.
Nguồn tin: Vca.org.vn
Sưu tầm: Ngọc Anh